Tương truyền vào thời nhà Thanh, ở tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) có một người thợ cắt tóc bị ghẻ lở nhưng lại không có tiền trị liệu.
Một ngày kia, không hiểu thế nào, anh ta lại lấy mấy mảnh xương mà mình nhặt được đem nghiền thành bột rồi rắc lên vết loét, thế là các nốt mụn lở dần dần khô lại. Sau này, anh ta mới biết những miếng xương đó chính là vị thuốc “long cốt”.
Bạn đã nghe đến xương của động vật cũng có thể dùng làm thuốc chưa? Có đấy. Và không chỉ xương động vật mà hóa thạch của chúng cũng có thể dùng làm thuốc, chẳng hạn như “long cốt” (1).
Long cốt là vị thuốc gì?
Long cốt (龍骨) không phải là “xương của rồng” theo nghĩa chiết tự mà là tên gọi dùng để chỉ hóa thạch từ xương của một số động vật thời cổ đại như ngựa 3 móng, lợn rừng, hươu, trâu, tê giác, voi mamut…

Nhìn chung, vị thuốc này hầu như chỉ được dùng trong Đông y và cho đến nay, nguồn dược liệu ở nước ta vẫn được nhập từ Trung Quốc là chủ yếu (ở Trung Quốc, long cốt được phát hiện tại nhiều tỉnh như Sơn Đông, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Ngũ Đài Sơn…).
Đặc điểm: các hóa thạch này thường to nhỏ không đều, có màu trắng hơi vàng và cũng có khi pha thêm màu xám, màu xanh… Bề mặt của các hóa thạch này nhẵn bóng, thỉnh thoảng có các bề mặt bị đứt gãy, nứt (chỗ bị gãy, nứt thì hơi thô).
Điểm đặc biệt của long cốt là khả năng hút ẩm khá mạnh. Chính vì vậy, nếu bạn thử nghiệm bằng cách lấy một miếng long cốt để lên đầu lưỡi thì bạn sẽ thấy có một lực hích rõ ràng.
Công dụng làm thuốc của long cốt
Theo các kết quả nghiên cứu và phân tích thành phần thì long cốt được cấu tạo từ nhiều chất, trong đó có thể kể đến Canxi photphat, Canxi Cacbonat, ngoài ra còn có Sắt, Kali, Natri…

Theo y học cổ truyền, long cốt có vị ngọt, tính bình và có nhiều công dụng đáng chú ý như:
- Giúp trấn tâm, trấn kinh, an thần (tác dụng nổi trội nhất).
- Điều trị mất ngủ do hồi hộp.
- Dùng cho người hay bị đổ mồ hôi trộm.
- Điều trị tả lỵ lâu ngày không khỏi.
- Tiêu trừ mụn nhọt, ứ huyết.
- Điều trị hen suyễn.
- Giúp phòng ngừa sự xâm nhập của các tác nhân xấu từ môi trường bên ngoài.
- Dùng trong trường hợp thần trí không yên định (1) (2) (3).
Ngoài ra, theo sách Uông Ngang thì vị thuốc này còn giúp nhuận tràng, bổ thận và điều trị được các chứng thổ huyết, bạch đới ở phụ nữ, di tinh ở nam giới; đồng thời cũng giúp kiện tinh, giúp yên thần phách; từ đó không còn kinh giản và mê sảng khi đang ngủ (3).
Liều dùng: Tùy theo chỉ định của thầy thuốc, liều lượng dùng có thể dao động từ 2 – 10 g mỗi ngày, cũng có khi lên đến 20 g – 40 g mỗi ngày (dùng ở dạng thuốc sắc hoặc tán bột, nếu dùng làm thuốc sắc thì phải cho vào nấu trước các vị khác) (1) (2).
Các bài thuốc thường dùng long cốt
1. Giúp cầm máu
- Chuẩn bị: long cốt (30 g) và mai mực (tức ô tặc cốt, 30 g).
- Thực hiện: hai thành phần trên tán nhỏ và để dùng dần. Khi bị thương ngoài da hoặc có các vết loét chảy máu, ta dùng bột này rắc lên thì sẽ giúp cầm máu (2).
2. Điều trị chứng đổ mồ hôi trộm
- Chuẩn bị: long cốt (nung lên, 12 g), mẫu lệ (nung lên, 12 g), bột tẻ (40 g) và sinh hoàng kỳ (12 g).
- Thực hiện: lấy các vị trên tán thành bột mịn, sau đó cho vào túi vải thưa, buộc kín lại và cầm thoa lên da (thoa thường xuyên) (3).
Lưu ý khi dùng
- Đối tượng cần tránh: Những người bị bệnh do thấp nhiệt gây ra thì không được uống.
- Kiêng kị: Khi dùng thuốc này cần tránh ăn cá (4).
Thông tin thêm
Về tên gọi, long cốt còn được gọi bằng các tên khác như hoa long cốt, phấn long cốt… Ngoài ra, với răng hóa thạch của tê giác và ngựa 3 móng thì người ta gọi là “long xỉ” (loại này cũng được dùng với các công dụng tương tự (2).
Bác sỹ cho hỏi: Long cốt cần phải làm gì? Trước khi tán bột làm thuốc hoàn . Cảm ơn!