Trong Đông y có vị thuốc “hổ trượng căn” nhưng nó không liên quan gì đến con hổ mà là củ cốt khí. Tương tự như vậy, ta có vị “bạch hổ” và “bạch hổ thang” nhưng chúng cũng không liên quan gì đến động vật mà lại là một loại khoáng vật tự nhiên.
Vâng, “bạch hổ” ở đây chính là thạch cao – một loại nguyên liệu quen thuộc (có màu trắng, dạng tinh thể khối) mà các chị em hay dùng để làm mứt dừa và trong y học, nó cũng là một loại thuốc.
Nếu như trong Tây y, thạch cao chủ yếu được dùng để bó bột khi bị gãy xương thì trong Đông y, nó thường được dùng làm thuốc thoa ngoài da hoặc làm thuốc uống.
Phân biệt: thạch cao dùng làm thuốc và làm phụ gia thực phẩm khác với loại dùng trong xây dựng.
Tuy nhiên, khi dùng thạch cao thì cần hết sức lưu ý (để tránh gây nguy hiểm cho tính mạng), đó là:
- Nếu dùng để uống: chỉ rửa rồi giã nát ra và uống (hoặc cho vào thang thuốc nấu uống cùng các loại thuốc khác), lưu ý không được nung.
- Nếu dùng để thoa sức ngoài da: có thể đem nung nóng cho thạch cao mất nước, trở thành dạng khan. Tuy nhiên, sau khi nun thì ta chỉ dùng ngoài da, không được uống vì nếu uống thì vị thuốc này sẽ hút nước rất mạnh và sau nó nở ra nhanh chóng khiến cho tắc ruột, thậm chí tử vong) (1) (2).
Công dụng làm thuốc của thạch cao
Trong Đông y, thạch cao còn được gọi là bạch hổ, đại thạch cao hay băng thạch…
Đây là vị thuốc có vị ngọt cay, tính hàn nên giúp giáng hỏa và phù hợp với các bệnh do nhiệt như:
- Sốt; sốt cao khiến cho mê sảng, phát cuồng và sốt rét.
- Nhức đầu do vị hỏa và nhức răng do nhiệt.
- Điều trị khô miệng, khô lưỡi và ho do phổi nhiệt.
- Dùng trong trường hợp khí dưới tim đi ngược lên.
Cách dùng: mỗi ngày, lấy từ 10 – 30 g thạch cao, tán nhỏ ra như bột rồi hòa với nước và uống (hoặc nấu nước uống) (1) (2).
Bên cạnh đó, nói về công dụng của vị thuốc này thì sách Mậu Hy Ung còn ghi: Khi tà nhiệt xâm nhập ở kinh dương minh thì miệng khô, lưỡi đen; nếu không giải được thì người bệnh sẽ hay nói nhảm, thần trí hôn mê như bị ma ám. Vì vậy, “chỉ có thạch cao đại hàn mới giải được tà nhiệt ấy” (2).
Lưu ý khi dùng thạch cao
- Đối tượng cần tránh: Vị thuốc có tính hàn nên những người già yếu, dạ dày yếu hoặc mắc bệnh nhưng không do thực nhiệt gây ra thì không được dùng.
- Trong kết hợp: Không được dùng thạch cao cùng với ba đậu hoặc mãng thảo.
- Trong chế biến: Vị thuốc này kị sắt nên khi nấu, chúng ta không nên dùng nồi sắt (1) (2).
Các bài thuốc thường dùng
1. Bạch hổ thang
Bạch hổ thang điều trị sốt cao gây khát nước, mê sảng, mạch đập nhanh là bài thuốc nổi tiếng của danh y Trương Trọng Cảnh.
Trong đó, ta dùng 16 g thạch cao nấu cùng 6 g tri mẫu, 2 g cam thảo Bắc và 12 g ngạnh mễ; tất cả cùng nấu với 600 ml nước cho đến khi nước rút còn 1/ 3 thì chắt ra.
Với thuốc này, sau khi sắc xong, ta chia thành ba phần và uống ba lần trong ngày (1).
2. Điều trị chứng sốt quá phát điên cuồng
- Chuẩn bị: 8 g thạch cao và 4 g hoàng liên.
- Thực hiện: giã nhỏ thạch cao rồi cho vào nồi cùng với hoàng liên, sau đó đổ 400 ml nước vào, nấu đến khi nước rút còn một nửa thì chắt ra và chia thành 3 lần uống trong ngày (1).
Thông tin thêm
- Về thạch cao nung: Loại nung chỉ dùng ngoài da để điều trị lở loét, ngứa ngáy nổi ban, vết bỏng do lửa, vết thương ngoài da chảy máu (giúp giảm chảy nước vàng ở miệng vết thương) hoặc vết thương lâu ngày không khỏi (giúp vết thương mau đóng vảy, liền miệng)…
- Về vấn đề thạch cao dùng làm đậu phụ: Được biết, để làm được đậu phụ (tàu hủ) ngon và kết tủa thành công thì người sản xuất thường dùng thạch cao – loại có độ tinh khiết cao, được quy định dùng trong phụ gia thực phẩm (hiển nhiên vẫn có cách làm đậu phụ mà không cần dùng thêm vị này).
- Tuy nhiên, theo điều tra thì nhiều nơi vì lợi nhuận nên đã dùng thạch cao xây dựng (chứa nhiều tạp chất độc hại như thủy ngân, chì…) để làm đậu phụ. Những miếng đậu phụ dạng này thường cứng, có màu ngả vàng và nếu dùng lâu thì các tạp chất nói trên sẽ gây ngộ độc (3).