Cô Tấm không thể bước ra từ cổ tích nhưng quả thị thì hương vẫn ngọt ngào. Thật vậy, ở xứ Đông Dương này, nhắc đến trái thị là người ta nghĩ ngay đến cái câu thần thánh “Thị ơi thị, thị rụng bị bà. Bà để bà ngửi, chứ bà không ăn“.
Dường như, mỗi lần cầm trái thị trên tay, những người hoài cổ lại ít nhiều nhớ về cô Tấm dịu hiền bước ra từ quả thị. Trẻ con nâng niu bỏ quả thị trong túi áo, người lớn thì đem quả trưng lên bàn thờ, kính dâng tấm lòng thơm thảo với tổ tiên. Nhiều người thích trái thị ở cái màu vàng tươi đậm đà, ở cái hương thơm “không giấu được” (dẫu rằng, có đôi khi, trái thị vẫn bị chê “hôi” bởi những người không thích mùi hương của nó).
Vài nét về cây thị
Cây thị có tên khoa học là Diospyros decandra, thuộc họ Thị (1) và là cây ăn quả quen thuộc của Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan. Ngoài tên gọi này, cây còn được gọi là thị muộn, thị sáp, thị rừng, thị mười nhị…
Trái thị to gần bằng quả cam nhưng hơi dẹp (tựa như quả hồng giòn, loại cho quả nhỏ hơn thì gọi là thị lục sáp) và có màu vàng khi chín. Có lẽ vào cuối thu, quả thị mới thu hết sắc vàng của đất trời, của cây lá, đẹp như cổ tích, để rồi phát tiết thành màu vỏ ngọt ngào.
Quả thị ngon là loại quả to, tròn đều, cầm chắc tay, không bị rám da và đẹp nhất là còn dính một ít cành lá. Lúc ấy, người nhà quê đem chưng hay đặt trong rổ, trong giỏ để thưởng thức hương thơm chứ chẳng nỡ ăn (vả lại trái thị cũng hơi ngọt chát nên ăn thường dễ chán).
Tác dụng làm thuốc của quả thị
Vỏ quả: Vỏ quả thị có chứa tinh dầu thơm, có tác dụng tiêu viêm, tiêu độc và thường được dùng ngoài da trong các trường hợp như:
- Giời leo: lấy vỏ thị khô, đốt thành than rồi tán mịn, bôi lên.
- Rắn cắn: phơi khô vỏ thị, đốt thành than, tán nhuyễn rồi cho thêm chút dầu mè hoặc mỡ lợn, sau đó đắp lên vết cắn.
Thịt quả: Theo kinh nghiệm dân gian cũng như kết quả thử nghiệm thì thịt quả thị có tác dụng xổ giun. Thông thường, người dân lấy từ 2 – 4 quả thị chín vàng và cho trẻ con ăn vào buổi sáng, lúc còn đói để giúp ra giun, nhất là với giun kim.
Ngoài ra, quả thị còn có tác dụng an thần nên ở Campuchia, người ta còn dùng quả thị để điều trị mất ngủ.
Công dụng làm thuốc của lá thị
Công dụng nổi trội thường được nhắc đến của lá thị chính là gây trung tiện (cùng với hạ khí, tiêu viêm và giảm đau). Thông thường, trung tiện là một hoạt động sinh lý bình thường (mặc dù nó có thể gây ảnh hưởng đến những người xung quanh). Tuy nhiên, trong trường hợp phẫu thuật, trung tiện lại có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó báo hiệu ruột của người bệnh đã thông (tức không bị các vấn đề sau phẫu thuật như tắc ruột).
Vì vậy, trong trường hợp sau khi mổ mà người bệnh không “xì hơi” được (hoặc trong trường hợp người bình thường bị trướng bụng), có thể dùng lá thị để gây “xì hơi” bằng các cách sau:
Cách 1: Lấy một ít lá thị tươi, rửa sạch, giã nát rồi rịt một phần vào hậu môn, phần còn lại thì đắp lên rốn và cố định lại.
Cách 2: Lấy 100 g lá thị khô sắc lấy nước uống, sắc đến khi nước rút còn 100 ml thì ngưng. Lưu ý, chia thuốc thành nhiều lần uống và mỗi ngày chỉ uống từ 20 – 30 ml nước sắc, đồng thời kết hợp dùng bông gòn tẩm nước sắc đắp lên rốn.
Cách 3: Lấy lá thị thái mỏng, phơi khô rồi cuộn vào giấy làm điếu hút, ngày hút 3 lần.
Ngoài tác dụng gây trung tiện, nước sắc từ lá thị còn có tác dụng điều trị phù thũng (mỗi ngày sắc uống từ 30 – 50 g).
Dùng ngoài da: Trong trường hợp bị mụn nhọt hay bỏng lửa, có thể lấy lá thị tươi, giã nát và đắp lên da. Nếu bị thương lở loét, có thể lấy lá thị nấu lấy nước thật đặc rồi để nguội, bôi lên da.
Lưu ý khi dùng quả thị
- Không nên ăn quả thị chưa chín (nhất là vào lúc đói).
- Không nên dùng quá liều các bài thuốc từ lá thị (kết quả thí nghiệm cho thấy dịch chiết lá thị dùng với liều nhỏ làm tăng biên độ tim nhưng nếu dùng với liều lớn sẽ làm giãn mạch, hạ huyết áp, yếu tim, loạn nhịp tim và ngừng tim) (3).