Lúc còn nhỏ tôi hay bị té. Mỗi lần như vậy, mẹ tôi lại dỗ rồi suýt xoa cái câu quen thuộc: “Tội nghiệp con tui chưa, chút xíu nữa là cái lỗ mũi ăn trầu rồi”. Ngày ấy, tôi cứ tưởng “lỗ mũi ăn trầu” là lỗ mũi sưng lên, ai dè…
Bạn đã bao giờ thấy những người lớn tuổi ăn trầu chưa? Riêng tôi, lúc còn nhỏ, có vài lần tôi được mẹ dẫn đi thăm bà Cồ. Bà hơn tám mươi tuổi, thích ăn trầu nên miệng bà lúc nào cũng nhai trầu và cái hỗn hợp màu đỏ ấy làm tôi sợ, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Sau này, tôi mới dám lại lục lọi cái bình vôi, rổ lá trầu và những miếng cau của bà.
Nghĩ lại, dân gian thật tài tình khi đã đặt ra câu chuyện trầu cau (nói về tình anh em, chồng vợ) để truyền cho cháu con tập tục ăn trầu như một hình thức vệ sinh răng miệng (khi chưa có bàn chải đánh răng, chỉ nha khoa….như ngày nay). Vì sao như vậy?
Có lẽ, với nhiều người, lá trầu không chỉ xuất hiện trong những nghi thức đồ lễ, đồ cúng hay đi kèm với cau, với vôi như một bộ ba không thể thiếu. Tuy nhiên, có một thời, giàn trầu – hàng cao đã là biểu tượng của làng quê mà đến nay, ông cha ta đã dùng nó với nhiều công dụng hơn, không chỉ trong đời sống mà còn trong y học.
Những công dụng làm thuốc của lá trầu không
Lá trầu không là bộ phận được dùng làm thuốc chủ yếu của dây trầu (có thể dùng tươi, dùng khô hoặc dùng dưới dạng bột tán).
Theo y học cổ truyền
Lá trầu có vị cay nồng, tính ấm và có mùi thơm hơi hắc. Theo Đông y, lá trầu được biết đến với các công dụng như:
- Điều trị đau bụng, đầy hơi và nhức mỏi (do hàn thấp).
- Điều trị cảm mạo, đờm nhiều (gây khó thở) và hen suyễn (do thời tiết).
Liều dùng: mỗi ngày sắc từ 8 – 16 g. Ngoài ra, lá và rễ trầu còn được dùng trong các trường hợp như:
- Điều trị tiểu nhắt: lấy thân, lá hoặc rễ trầu (khoảng 10 g) và 10 g rễ cau sắc lấy nước uống (mỗi ngày một lần) (3).
- Điều trị bong gân, trật khớp: dùng 12 g lá trầu tươi, 20 g củ nghệ già, 12 g lá cúc tần và 12 g lá xạ can, giã nát rồi để thêm một ít giấm và trộn đều, đắp lên chỗ bị đau (có thể dùng miếng gạc hay vải để cố định thuốc đắp lại). Sau hai ngày, gỡ thuốc ra rồi thay thuốc mới (3).
Theo y học hiện đại
Các kết quả nghiên cứu cho thấy Lá trầu không có nhiều công dụng quý, chống lại nhiều loại nấm và vi khuẩn như: Tụ cầu vàng, phế cầu, liên cầu tan máu, phảy khuẩn tả, trực trùng Coli… (2) (3).
Điều này đã giải thích vì sao dân gian lại xem “miếng trầu là đầu câu chuyện”. Không chỉ giúp khử mùi, làm thơm miệng mà theo quan niệm của những người ăn trầu (như bà tôi), nhai trầu còn giúp răng sạch và chắc khoẻ. Còn nhớ, khi tôi hỏi bà tôi tại sao bà lại ăn trầu suốt ngày như thế thì bà cười: “Bà ăn quen rồi, không ăn buồn miệng lắm. Ăn cho nó sạch răng, chắc răng. Nè, thấy răng của bà không?”. Thế là bà nhe hàm răng hàm răng ăn trầu của bà ra, đỏ quạch, tôi cười lè lưỡi.
Theo các kết quả nghiên cứu, lá trầu còn có các hoạt tính khác như:
- Chống oxy hoá, làm giảm căng thẳng thần kinh.
- Có tác dụng tốt với bệnh nhân hen phế quản.
- Ức chế sự tăng quá mức của nhu động ruột.
- Cao nước lá trầu làm thành thuốc mỡ giúp làm lành vết thương và điều trị bỏng (3).
Lưu ý
- Đối tượng: Phụ nữ có thai không nên dùng lá trầu (3).
- Liều lượng: Không nên dùng quá liều lá trầu và hạn chế dùng xuyên suốt (vì kết quả thí nghiệm cho thấy lá trầu có hoạt chất gây ức chế hệ thần kinh trung ương ở động vật có vú). Ngoài ra, dùng quá liều lá trầu có thể gây hôn mê và thậm chí tử vong (3).
- Về tục ăn trầu: Trong các thành phần để làm nên miếng trầu thường có thuốc lá. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu y học thì thuốc lá là nguyên nhân chính dẫn đến ung thư ở những người nghiện nhai trầu trong thời gian dài (có dùng thuốc lá) (3).
- Mặt khác, ăn trầu cũng gây nghiện và làm cho răng miệng bị đổi màu. Trong đời sống hàng ngày, ăn trầu cũng gây bất tiện trong sinh hoạt khi người ăn phải thường xuyên phun nước bọt và nhổ bã. Hơn nữa, mặc dù ăn trầu giúp chắc răng và sạch miệng nhưng không nên vì thế mà lười đánh răng. Và cũng cần lưu ý rằng không nên ăn trầu thường niên vì bất cứ loại thuốc hay thực phẩm nào, dùng quá liều trong thời gian dài đều không tốt cho sức khỏe (nếu không nói là gây độc).
- Về mục đích sử dụng: Lá trầu chỉ nên dùng để làm thuốc khi có chỉ định của thầy thuốc và bác sĩ, không nên tùy tiện sử dụng trong làm đẹp hay các mục đích khác khi chưa tìm hiểu kỹ càng.
Tham khảo: Lá trầu không – Điều trị viêm da cơ địa, giúp se khít ấm đạo
Thông tin thêm
Trầu, tức trầu không, trầu lương, thược tương… là loài dây leo có lá hình tim, tên khoa học là Piper betle, thuộc họ Hồ tiêu: Piperaceae (1) (2).
Ngày nay, cũng như cây cau, những giàn trầu đã không còn phổ biến như trước. Thỉnh thoảng vào những ngày lễ chạp, bạn có thể thấy một rổ trầu cau được bày bán ngoài chợ. Vào ngày Tết, trầu cau được bán nhiều hơn do các hoạt động tâm linh (dâng cúng bà mẹ sanh…).
Ngày nay, không còn nhiều người ăn trầu như hai mươi năm về trước nữa. Tuy nhiên, tục ăn trầu vẫn là nét văn hoá của người Việt và nhiều dân tộc khác trên thế giới. Ai đó, nếu đã từng xem cổ tích Nàng Xuân Hương hẳn còn nhớ cái câu đố tài trí về món ăn có 5 vị mà ăn mãi không no. Và cả câu trả lời đáo để của nàng Xuân Hương mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ:
“Trầu có vị cay là một. Cau có vị ngọt là hai. Vôi có vị nồng là ba. Vỏ có vị chát là bốn. Thuốc lá có vị đắng là năm. Trầu càng ăn càng say, ăn hoài không no là bởi vì không ai nuốt trầu bao giờ hết“.